Phân tích bài thơ Sóng gần như trọn bộ nhất

Cảm nhận hàn huyên của Tú Xương gửi gắm trong bài thơ Thương vợ
Tú Xương sở hữu phổ biến bài thơ, bài phú đề cập về vợ. Bà Tú vốn là "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi khiến cho ăn buôn bán, đôn hậu được bà con xa gần mến trọng:

"Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười

Trong họ ngoài làng, vụng về lẽ chào dơi nói thợ".

Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: "Tiền bạc phó cho con mụ kiếm - Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi".

"Thương vợ" là bài thơ cảm động nhất trong các bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, song song cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ cất chan tình thương yêu nhiệt liệt của ông Tú đối sở hữu người vợ hiền thảo của mình.



Sáu câu thơ đầu nhắc lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ko kể cuộc đời: hình ảnh trung thực về một người vợ tần tảo, 1 người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.

Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là 1 người vợ siêu đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ "hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong toàn bộ việc" (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là 1 người đàn bà:

"Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con mang một chồng".

“Quanh năm buôn bán" là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác... ko được 1 ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "Buôn bán ở mom sông”, nơi loại mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi khiến cho ăn là mẫu thế đất chênh vênh. Hai chữ ''mom sông" gợi tả một cuộc đời rộng rãi mưa nắng, 1 cảnh đời cơ cực, nên vật lộn kiếm sống, mới "Nuôi đủ năm con có 1 chồng". Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai "đếm" con, "đếm" chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn cất nỗi niềm chua chát về 1 gia đình gặp rộng rãi khó khăn: đông con, người chồng đang bắt buộc "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại 1 bí quyết chân thực người vợ tần tảo, cáng đáng của mình.

Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về "lặn lội" làm cho ăn như "thân cò" nơi "quãng vắng". Ngôn ngữ thơ nâng cao cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như các nét vẽ, gam màu tiếp nối nhau, bổ trợ và gia tăng: đã "lặn lội" lại "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi cực nhọc kiếm sống ở "mom sông" tưởng như không thể nào nhắc hết được! Hình ảnh "con cò", “cái cò” trong ca dao cổ: ''Con cò lặn lội bờ sông...", "Con cò đi đón cơn mưa...", "Cái cò, loại vạc, dòng nông..." được tái tạo trong thơ Tú Xương qua hình, ảnh "thân cò" lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên can cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ,... của người đàn bà Việt Nam trong xã hội cũ:



"Lặn lội thân cò lúc quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông".

"Eo sèo" là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh tìm tranh bán, cảnh bào chữa vã nơi "mặt nước" lúc "đò đông”. Một cuộc đời "lặn lội", một cảnh sống làm ăn "eo sèo". Nghệ thuật đối đặc sắc đẹp đã khiến cho nổi bật cảnh kiếm ăn rộng rãi cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được "Nuôi đủ năm con có 1 chồng" nên "lặn lội" trong mưa nắng, buộc phải giành giật "eo sèo", buộc phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!

Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương ứng dụng siêu sáng tạo hai thành ngữ: ''một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa", đối xứng nhau hài hòa, màu nhan sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

"Một duyên hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công".

"Duyên'' là duyên số, duyên phận, "nợ" là cái "nợ" đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. "Nắng", "mưa" tượng trưng cho hầu hết vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ nâng cao dần lên: "một... hai... năm... mười..." khiến nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, 1 người đàn bà chịu thương chịu thương chịu khó vì sự sung túc hạnh phúc của chồng con và gia đình. "Âu đành phận"... "dám quản công"... giọng thơ phổ biến xót xa thương cảm.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng hàm ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác hoạ 1 vài nét vô cùng trung thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình sở hữu bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương trình bày bút pháp điêu luyện trong tiêu dùng tiếng nói và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, tiêu dùng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh "thân cò"... đã tạo phải ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi "mom sông", lúc "buổi đò đông" đưa vào thơ siêu tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

"Cha má thói thường ăn ở bạc,

Có chồng thờ ơ cũng như không!"

Trách mình "ăn lương vợ" mà "ăn ở bạc". Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn "hờ hững" với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!

Ta đã biết, Tú Xương sở hữu văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa 1 xã hội "dở Tây dở ta" chữ nho mạt vận, lúc mà "Ông nghè, ông cống cũng nằm co” cho bắt buộc thi sĩ tự trách mình, đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông ko xu thời để vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò".

Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và sự thế đầy buồn thương, là tiếng nhắc của 1 trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thượng vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là hải quan mình vậy. Đó là nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!



Bài thơ "Thương vợ" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng đề cập đời thường nơi "mom sông" của các người buôn bán nhỏ, cách đây sắp 1 thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật tìm lọc vừa cá thể (bà Tú sở hữu "năm con, một chồng") vừa tổng thể sâu nhan sắc (người cu li nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia đạo thêm nỗi đau đời. "Thương vợ" là bài thơ trữ tình đặc sắc đẹp của Tú Xương nhắc về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng phải chăng đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói tới trong bài thơ vô cùng gần gũi sở hữu người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương là nhà thơ trào phúng tuyệt vời trong nền văn chương Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi sở hữu non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa dòng xã hội dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận, Tú Xương vẫn giữ được nhân bí quyết kẻ sĩ, vẫn sống "sang trọng" như ai, bởi lẽ nhà thơ mang người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:

"Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,

Bốn con làm lính, bố làm cho quan.

(...) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ

Đem chuyện trăm năm – giở lại bàn".

(Quan tại gia)

Tú Xương đã với bài ''Văn tế sống vợ", lại có thêm bài "Thương vợ", đấy là những áng văn thơ vừa tài giỏi vừa nghĩa tình. Ca dao đã nhắc về người vợ tào khang "tay bưng chén muối đĩa gừng", Tú Xương với bao giờ quên được công ơn của bà Tú "Nuôi đủ năm con mang một chồng”.

Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 - 1983) thi sĩ cộng thời sở hữu Tú Xương đã mang bài thơ "Viếng bà Tú Xương" viết năm 1931:

"Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng,

Mẹ hiền, vợ đức đã treo gương.

Nếm chung trời Việt trăm cay đắng,

Vững mang con Côi một mối giường.

Bia miệng đã nên trang khổn phạm,

Nếp nhà ko thẹn dấu văn chương.

Tấm thân tuy thác, danh nào thác,

Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”.

Bài thơ của Á Nam giúp ta hiểu hơn Tú Xương và bà Tú, và chúng ta mới thấy hết dòng hay, dòng đẹp của tấm lòng Tú Xương được nói đến trong bài "Thương vợ".

3. Cảm nhận nỗi lòng của Tú Xương trong bài Thương Vợ
“Thương vợ” – 1 trong các bài thơ chất đựng nồng thắm bao cảm xúc của một người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng đó không nên ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho vợ mình những tình cảm cực kỳ thực tình qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.

Trần Tế Xương là một trong các nhà thơ trẻ có những tác phẩm đã trở nên bất tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ máu nóng của thi sĩ mang dân, mang nước, sở hữu đời.

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hãn hữu hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, mang hẳn 1 đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu phổ biến vất vả gian nan trong cuộc đời, nhưng bà lại sở hữu niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú có mọi niềm thương yêu, trân trọng của chồng. “Thương vợ” là 1 trong các bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.

Trong những câu thơ đầu, ông biểu hiện vô cùng chân thực về cuộc sống và cáng đáng nặng nhọc của vợ mình:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

...

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Nghề của bà là buôn bán, vòng quanh năm tháng ngày lặn lội ở “mom sông” – nơi mang rộng rãi nguy hiểm rình rập. Ông Tú đêm ngày bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn để tâm tới công tác của vợ mình, khác hẳn sở hữu những người đàn ông khác trong chế độ nam quyền cùng thời. Ông là người sở hữu tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh.



Ông đã dành cho vợ các lời thơ cực kỳ giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì buộc phải “Nuôi đủ năm con có 1 chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ ko thiếu thiết bị gì. Ông tự đặt mình tương hợp sở hữu “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương. Không bắt buộc ông hạ mình trước vợ, càng không nên ông phải chăng hèn, kém cỏi mà vì dòng nghiệp văn học của ông lúc bấy giờ không bắt buộc là thời hưng vượng cần ko thể dựa vào đó mà toan lo cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ông còn thầm với sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đẹp đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh. Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon chen đầy vất vả, ghen đua.

Có người đặt ra câu hỏi, vì sao ông hiểu vợ mình vất vả như vậy cơ mà không đứng lên làm giúp bà? Những vần thơ của ông với có lại cơm áo gạo tiền cho cô mụ vất vả? Ông hiểu biết, ông có kiến thức sao lại để vợ mình bắt buộc nặng nhọc vậy? Câu hỏi trái ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông ko thể bỏ cây bút mà lao vào khiến lụng thủ túc cùng bà được. Mình bà đảm đương cả năm con đã là một gánh nặng lắm rồi, lại thêm cả 1 ông chồng. Liệu rằng người đàn bà đó có gục ngã, mang kêu than?

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói thường ăn ở bạc

Có chồng thờ ơ cũng như không.”

Một lần nữa, Tế Xương dành cho vợ mình những lời thơ rất đáng trân trọng, nâng niu. Ông cảm mến và thông cảm với nỗi niềm vất vả của vợ, ông thấu hiểu sự cam chịu của bà. Càng hàm ơn vợ bao nhiêu, ông lại càng oán than bản thân mình bấy nhiêu. Ông tự chửi mình “Có chồng lạnh nhạt cũng như không”. Ông ko làm được gì giúp bà bên cạnh tình thương yêu và lòng thương cảm sâu sắc. Có lẽ đối sở hữu bà Tú như vậy cũng đã là đủ lắm rồi. Bởi thân phận người đàn bà xưa ai cũng khổ, cũng chìm nổi long đong, nhưng chẳng mấy ai được chồng thương và thấu hiểu như bà. Chỉ là do thời thế phải ông không giúp được gì cho vợ.

Bên cạnh những tình cảm chân tình dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm thanh minh niềm đồng cảm, xót xa sở hữu các thân phận đồng cảnh có bà. Bởi thế, ông ví vợ mình sở hữu “thân cò” – một hình ảnh thân thuộc trong ca dao Việt Nam khi nhắc về căn số nặng nhọc của người nông dân. Dù họ có buộc phải “lặn lội”, bắt buộc “eo sèo” hay tuy vậy nào đi chăng nữa, các “thân cò” vẫn hôm mai mài miệt kiếm sống.

Vậy, vì mục tiêu gì mà họ lại cam chịu như vậy? Không buộc phải vì bị ép buộc, mà vì tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh đấy thật đáng trân trọng và đáng quý biết bao. Nhưng ko nên ai cũng có nỗi lòng thấu hiểu như nhà thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ông ko tự cho mình được quyền thong dong, được hưởng thụ tha hồ đa số thiết bị và được trà đạp lên người phụ nữ. Ở xã hội ấy, có các người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì không. Bà Tú đã đi vào thơ ông mang ý tức là 1 người vợ đích thực, 1 người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh. Ông thương vợ và ngược lại cũng trách mình khiến cho chồng mà “hờ hững cũng như không”.

Đúng như cái tên mà tác nhái đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành các tình cảm thực bụng nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong sao những tình cảm của mình sẽ khiến cho bà vơi đi mỏi mệt sau bao ngày lặn lội nặng nhọc mưu sinh.

4. Tâm sự của Tú Xương qua bài thơ “Thương vợ”
Thơ văn Việt Nam xưa và nay sở hữu những bài thơ thương vợ, khóc vợ cực kỳ cảm động. Người ta còn ca ngợi 1 bài thơ của Tự Đức khóc 1 bà phi mang câu:

Đập vỡ gương ra tìm thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.

Nỗi nhớ nhung đau đớn, dữ dội đó còn được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Khuyến bộc lộ cảm động trong bài văn tế, câu đối khóc vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào... trước tấm lòng, đức hi sinh của vợ bằng giọng văn vừa sở hữu chút tính nghịch, vừa vô cùng cảm động; giữa sự kết hợp giữa trào lộng và trữ tình Tú Xương đã làm “giàu” thêm đề tài viết về bà Tú và kịp góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam 1 bài thơ về tình cảm thương vợ hay và sâu sắc.

Thương vợ là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu của bài thơ đã nêu bật lên được vai trò trụ cột gia đình của bà:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông
Nuôi đủ năm con mang một chồng.

Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn sâu sắc đẹp công lao của bà Tú. Có thời gian cụ thể: “quanh năm”; ko gian cụ thể: “mom sông” càng khiến cho nổi bật lên sự lam lũ, khó nhọc vần vật của bà Tú. Nơi marketing để kiếm miếng cơm manh áo của bà Tú là “mom sông”- là 1 chỗ đất nơi ra ở bờ sông, nơi ít người qua lại, sóng nước khấp khểnh gợi sự cheo leo, chênh vênh, phổ biến bất trắc. Thế nhưng “quanh năm” tức thị ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác như 1 vòng tuần hoàn khép kín, dù ngày nắng hay mưa,ốm đau hay khoẻ mạnh bà Tú lại quẩy gánh gồng ra nơi “mom sông” ấy để buôn bán. Cách kể như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự đãi đằng lòng hàm ơn đối mang bà Tú về mặt thời gian lao dộng. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà Tú là nhịp độ làm cho việc không giới hạn nghỉ tại 1 nơi khiến cho ăn, buôn bán khó khăn nhưng không phải chỉ để nuôi thân mà “Nuôi đủ năm con mang 1 chồng’. Đâu còn thấy hình ảnh:



Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

Mà trái lại ấy là dòng chồng: “Tiền bạc over here phó cho con mụ kiếm”, cái chồng “Thưng đấu nhờ lưng 1 má mày”. Người chồng là rường cột của gia đình, đảm trách việc vất vả để cưu có cuộc sống cho vợ con thế mà ở đây, trong câu thơ này ông Tú cảm thấy mình như 1 người “thừa”, 1 kẻ vô bổ và như một “thứ con” đặc thù để bà Tú buộc phải nuôi riêng. Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít. Toát lên qua hai câu thơ là 1 niềm cảm thương của ông Tú dành cho vợ trước đức hi sinh, tần tảo của bà; song song là 1 lời tự trách mình vì thân làm chồng mà để vợ đảm trách việc gia đình đồng thời còn phải chăng thoáng niềm kiêu hãnh về vợ của mình lúc làm lụng khó nhọc để “Nuôi đủ năm con mang 1 chồng”. Mặc dù, đấy là 1 ông chồng ko cần nhưng bằng lối văn dí dỏm, tình cảm chân thành, nhận ra được sự vất vả của vợ, tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng loại tình, bằng tấm lòng bắt buộc người đọc không hề trách mà trái lại sở hữu chút thông cảm đối sở hữu “ông chồng’ này.

Tình thương vợ được diễn tả trọn ven trong hai câu thơ 3, 4:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu thơ gợi lên cảnh khiến cho ăn vất vả, tội nghiệp của bà Tú. Chẳng hay, ông Tú đã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bào giờ? Qua tiếng ru con cua một bà mẹ hàng xóm hay chính trong lời ru của bà cụ Nhuận đã đi vào tiềm thức của tế Xương? Chắc chắn từ “con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh các bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, xuôi ngược tần tảo, gieo neo cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa, thương cảm. Để giờ đây, trong khi nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay vèo thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Phép đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng khắc hoạ rõ nét nỗi khổ cực, đức hi sin, sự chịu đựng của bà Tú. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng “lặn lội”. Ca dao nhắc “con cò”, Tú Xương nhắc “thân cò”. Ý thơ cổ như xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân cò” gợi thân phận lẻ loi, yếu ớt, lẻ loi và nó lại càng cô quạng, lạc điệu hơ khi đi cộng có từ “eo sèo”- 1 sự mặc cả, nhỏ nhoi, cô đơn, tội nghiệp. Vì “năm con với một chồng”, vì “miếng cơm manh áo” mà bà Tú buộc phải chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi đến quá chừng! Và dường như sông nước càng bao la bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, cập kênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Từ đấy càng khiến cho vượt trội tấm lòng thương vợ của Tú Xương và qua đó ông tỏ ra thấu hiểu hết những khó nhọc của bà Tú:

Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Câu thơ như đề cập lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ, duyên 1 thì nợ hai, thôi đành chịu theo số phận, ko giám nề hà, không nhắc công gì nữa. Nhưng câu thơ còn khiến nhứ tới câu ca dao:

Một duyên, hai nợ, ba tình,
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh.

Ngoài cái duyên, dòng nợ còn có dòng tình; chiếc nghĩa tình vợ chồng của bà Tú dành cho chồng mình. Thành ra kể “nợ” mà thực ra là nhắc “tình”, mà đã là tình thì ai lại kể công. Số từ nâng cao tiến: “một”, “hai”, “năm”, “mười” càng dồn nén sự chịu đựng của bà Tú, càng làm cho trào dâng lên nỗi niềm xót thương, cảm thông trước sự hi sinh vất vả, tần tảo của bà Tú.

Bài thơ kết bằng 1 cấu chửi - một câu chửi yêu:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng lạnh lùng cũng như không.

Nhìn cuộc đời bà Tú như vậy mang chửi cũng là lẽ tất yếu. Nhưng ở đây ai chửi? chửi ai? Và chửi chiếc gì? Thì cũng chỉ là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Ông Tú đã tự chửi mát mình về chiếc thói “ăn ở bạc”, mẫu tội “làm chồng mà lạnh lùng cùng như không”, làm chồng mà để vợ nên trăm cơ, nghìn cực như thế. Hai câu kết khép lại bài thơ vừa như là 1 lời chửi, vừa như là 1 lời than. Nhà thơ tự phán xét chính mình, tự trách mình và tha cho cảnh ngộ của vợ. Câu thơ cũng chỉ ra duyên cớ dẫn tới nỗi khổ của bà Tú là do “thói đời” bạc bẽo. “Thói đời” bạc tình đã biến ông Tú phát triển thành kẻ vô tích sự, chính vì vậy ông trở nên gánh nặng cho vợ. Lời chửi vừa diễn tả nỗi niềm hàn huyên đắng cay ch cảnh ngộ của ông Tú, vừa mô tả nỗi xót thương, ngậm ngùi của ông Tú đối sở hữu vợ.

Bài thơ đã dựng lên hai bức chân dung: ông Tú và bà Tú. Bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú từ trần lấp phía sau. Vượt lên trên đa số là tấm lobngf yêu thương, quí trọng và tri ân của ông Tú đối mang người vợ tần tảo. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng bình phẩm về bài thơ Thương vợ rằng: “Thơ hay, hay ở ý tình; hay ở chữ, tiếng, hay ở sự việc; hay ở nhạc điệu: lặn lộ, eo sèo, thân cò, mặt nước, quãng vắng, đò đông, mỗi chữ đều tình cảm”. Qua đó, tấm lòng yêu thương, trân trọng cũng như các trăn trở, day dắt đã tạo cần nhân cách cao đẹp của Tú Xương, 1 con người dám sòng phẳng có bản thân, tự nhận ra thiếu sót của mình và không trút bỏ trách nhiệm.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *